Dưới đây là bài phỏng vấn GS. TSKH Ngô Việt Trung (GS NVT), Viện trưởng
Viện Toán học Việt Nam về tình hình nền Toán học Việt Nam trong thời
gian gần đây
PV: Nền Toán
học Việt Nam trong hai thập niên trở lại đây được cho là đang gặp nhiều
khó khăn, xuống cấp rõ rệt và có nguy cơ thoái hóa nghiêm trọng. Ông
nghĩ gì về nhận xét này?
GS NVT: Thật đáng
tiếc, đó là tình hình chung của các ngành khoa học cơ bản. Riêng trong
Toán học chúng ta đang ‘đuổi kịp’ trình độ các nước như Malaysia và Thái
Lan và ‘bỏ xa’ các nước như Hàn Quốc và Singapore. Hội Toán học thế
giới chia các nước hội viên ra làm 5 nhóm theo trình độ phát triển của
từng nước. Hàn Quốc và Việt Nam được xếp vào nhóm 1 là nhóm kém nhất
cách đây hơn 30 năm. Nhưng hiện nay Việt Nam vẫn thuộc nhóm 1 trong lúc
Hàn Quốc thuộc nhóm 4 chỉ thua các cường quốc về Toán học thuộc nhóm 5.
PV: Được biết, lương của giáo sư hiện nay
là 4,3 triệu đồng/tháng. Đó là bậc cao nhất theo bảng lương, trong khi
lương của một giáo sư Toán người Mỹ khoảng hơn 100 nghìn USD/năm, còn
các nước đang phát triển như Trung Quốc, Braxin cũng không dưới 2000
USD/tháng. Phải chăng,, lương bổng đang là vấn đề “đau đầu” nhất tác
động đến vị thế giảm sút của ngành Toán?
GS NVT: Lương bổng thật ra không ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả
nghiên cứu của những nhà khoa học thực thụ nhưng lại gián tiếp phá hoại
đội ngũ cán bộ khoa học theo nghĩa là không còn mấy người chuyên tâm
làm khoa học vì phải lo làm việc khác để kiếm sống. Điều tồi tệ nhất là
thế hệ trẻ không còn mấy ai chọn con đường làm khoa học và nếu có ai
đó thành đạt thì đều làm việc ở nước ngoài. Vừa qua một cựu học sinh
của tôi sắp bảo vệ Tiến sĩ bên Mỹ có hỏi tôi rằng là nếu em muốn về
công tác tại Viện thì thu nhập thực tế sẽ là bao nhiêu. Sau khi biết
thu nhập đó khoảng 2 triệu đồng/tháng thì em ấy nói với tôi là chắc em
sẽ phải ở lại Mỹ lâu hơn. Còn một cán bộ trẻ mới về Viện cho biết các
bạn cùng lớp cho rằng đầu của em ấy có vấn đề thì mới chọn con đường
nghiên cứu Toán học.
PV:
Cách đây một vài năm có một cuộc tranh luận rất sôi nổi và gay gắt về
vai trò của nghiên cứu Toán học. Đã có những ý kiến cho rằng Toán học
là ngành “ăn hại, vô bổ”. Cảm xúc của ông khi nghe những nhận xét này?
GS NVT: Nhận xét này chứng tỏ họ là những người không hiểu những tiến
bộ khoa học kỹ thuật mà chúng ta đang sử dụng hàng ngày hiện nay đều
có phần đóng góp quan trọng của Toán học. So với lúc mới ra đời, tốc độ
tính toán của máy tính hiện nay đã tăng lên hàng triệu lần nhưng có
mấy ai biết được là hơn 50% tỷ lệ tăng trưởng có được là do những thuật
toán đã được hoàn thiện hơn chứ không phải đơn thuần chỉ do sự phát
triển phần cứng đem lại. Điện thoại di động không thể thiếu được trong
cuộc sống nhưng mấy ai biết rằng mọi cuộc thoại đều được nén lại và mã
hóa bằng những công cụ toán học trong quá trình truyền đến người nghe.
Tổng thống Bush đã phát biểu về vai trò của
Toán học trong Tuyên bố liên bang đầu năm 2006 như sau: ‘Chúng ta phải
nắm được Toán học nếu chúng ta muốn cạnh tranh trong thế giới của thế
kỷ 21’.
Có những người lập
luận rằng ở một nền kinh tế kém phát triển như ta thì cần gì phải tiến
hành nghiên cứu cơ bản cho phí tiền và ta chỉ cần thuê chuyên gia nước
ngoài vào giúp đỡ khi cần thiết. Nếu làm như vậy thì Việt Nam mãi mãi
sẽ chỉ là một nước làm công rẻ mạt cho các nước giàu. Chúng ta có thể
xuất khẩu hàng triệu tấn gạo, cá hay cà phê nhưng những cái đó làm thế
nào so sánh giá trị với số tiền khổng lồ chúng ta phải trả cho việc
nhập khẩu công nghệ và thiết bị kỹ thuật. Còn nếu chúng ta muốn xuất
khẩu máy móc thì chúng ta không thể không cần đến Toán học để điều
khiển chúng. Hãy nhìn các nước và vùng lãnh thổ mới nổi lên như Đài
Loan, Hàn Quốc, Singapore xem họ có chọn con đường đợi kinh tế phát
triển mới tiến hành nghiên cứu cơ bản không.
Ngoài lĩnh vực kinh
tế ra Toán học cũng rất cần thiết trong an ninh và quốc phòng, đặc biệt
là trong việc bảo mật thông tin. Liệu chúng ta có thể tin tưởng dùng
các thiết bị và kỹ thuật thông tin mua ở bên ngoài không? Chúng ta có
thể chống lại chiến tranh điện tử mà Mỹ đã từng sử dụng khi đánh Nam Tư
và Irắc không. Bình luận về bài phát biểu của Tổng thống Bush năm
2006, một nhà nghiên cứu ở Trung tâm hợp tác và an ninh quốc tế của Đại
học Stanford đã phát biểu: phát triển Toán học còn là vấn đề an ninh
quốc gia.
PV: Trong
những nhận xét đó cũng có những ý kiến nhận được sự đồng tình của khá
nhiều người trong cuộc. Đặc biệt là ý kiến, học Toán, làm Toán nói
chung chỉ là một chuỗi công đoạn “tự sướng”, tự đặt vấn đề, tự giải
quyết vấn đề rồi lại tự hoan hô với nhau. Những công trình nghiên cứu
Toán học không hề đem lại một thứ giá trị cho sự phát triển kinh tế -
xã hội hiện tại?
GS
NVT: Ý kiến đầu tương đối
chính xác. “Tự sướng” đúng không chỉ với người làm Toán mà với tất cả
những người làm khoa học. Vì làm khoa học là phải sáng tạo. Khi phát
hiện ra được một cái mới chưa ai biết đến thì anh tự sướng là đúng. Nếu
cái tự sướng đó càng khiến anh đam mê, càng thôi thúc anh khám phá một
chân trời mới thì càng phải khuyến khích cái “tự sướng" đó.
Ý kiến thứ hai chỉ đúng với các công trình
riêng lẻ chứ không thể nói về nghiên cứu Toán học nói chung. Năm 1937,
nhà toán học Anh Turing chỉ ra rằng không có thuật toán nào kiểm tra
được các mệnh đề số học đúng hay sai. Để chứng minh điều này ông đã xây
dựng một loại ngôn ngữ toán học mà bây giờ được gọi là máy Turing. Có
thể coi máy Turing là bản thiết kế đầu tiên cho máy tính hiện đại.
Chính Turing là một trong những người chủ chốt trong việc phá mã của
hải quân Đức và làm ra một loại máy tính phục vụ cho việc này. Thủ
tướng Anh lúc bấy giờ là Churchill đã coi Turing là cá nhân có đóng góp
lớn nhất trong việc đánh bại Hitler. Tạp chí Time xếp Turing là người
vĩ đại nhất của thế kỷ 20 trong công nghệ tin học. Một ví dụ sát sườn
hơn là việc sử dụng đường cong elliptic vốn là một đối tượng nghiên cứu
của Toán học hiện đại vào mã hóa thông tin. Ý tưởng này được đề xuất
năm 1987 trong một công trình của nhà toán học Mỹ Koblitz (người đã đến
làm việc tại Viện Toán học Việt Nam nhiều lần trong hơn 20 năm qua).
Ngày nay tất cả các thẻ từ rút tiền mà chúng ta đang sử dụng đều áp
dụng kỹ thuật này.
PV:
Trong những nhận xét đó, Toán lý thuyết bị lên án, đả kích nhiều nhất.
Là một trong những nhà khoa học đầu ngành nghiên cứu về Toán lý thuyết
hiện nay, ông có cảm thấy bị “xúc phạm” khi nghe những nhận xét này từ
chính những nhà toán học?
GS NVT: Chính các nghiên cứu Toán học lý thuyết tạo ra tư tưởng mới,
phương pháp mới. Không có những cái này thì Toán học không thể có những
ứng dụng đột phá như tôi đã nói ở trên. Ngày nay, Toán học là một thực
thể gồm nhiều chuyên ngành và định hướng khác nhau nhưng lại gắn chặt
và bổ trợ cho nhau. Nếu Toán học chỉ làm ứng dụng thì mãi mãi nền Toán
học đó chỉ đứng yên một chỗ.
Nói rộng hơn thì chỉ có nghiên cứu cơ bản mới đem lại tri thức
cho loài người và chỉ có tri thức mới làm cho xã hội phát triển. Nói
như thế thì chúng ta mới có thể hiểu được tại sao các nước phương Tây
bỏ ra hàng tỷ đôla để nghiên cứu Vật lý hạt cơ bản hay nghiên cứu sao
Hỏa, v.v...
Những nhà toán
học đả kích Toán học lý thuyết chính là những người trăn trở với việc
ứng dụng Toán học ở nước ta. Một trong những người lên án Toán học
‘mạnh mẽ nhất’ lại chính là người tài trợ cho những người làm Toán 500
triệu mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì.
PV: Xin hỏi thật
giáo sư, những công trình nghiên cứu của Viện Toán học Việt Nam trong
khoảng hai thập niên vừa qua có đem lại nhiều ứng dụng không?
GS NVT: Rất tiếc là chúng tôi chưa có nhiều ứng dụng vào thực tế.
Thực ra, có rất nhiều lĩnh vực mà Toán học Việt Nam đủ sức giải quyết
như việc điều phối mạng mobile hay tính toán bảo hiểm xã hội. Nhưng
điều kiện, hay nói cách khác là “môi trường” sử dụng Toán học không có.
Các doanh nghiệp nhà nước chỉ thích sử dụng các công nghệ sẵn có của
nước ngoài theo phương châm “càng đắt càng tốt”. Khoa học hiện nay
không có động lực phát triển chính vì cơ chế quản lý không quan tâm đến
hiệu quả của các cơ quan hay công ty nhà nước.
PV: Phải chăng, vấn đề nằm ở tâm lý “sùng
ngoại” hay ở một động cơ nào khác?
GS NVT: Khi phải tự bỏ vốn ra kinh doanh, người ta sẽ tính đến việc
làm thế nào cho có hiệu quả nhất. Còn ở doanh nghiệp nhà nước thì người
ta sẽ không quan tâm đến túi tiền của chung mà quan tâm đến túi riêng.
PV: Giáo sư có quá “khắt khe” trong việc
đánh giá điều kiện khách quan mà “dễ dãi” trong việc nhìn nhận điều
kiện chủ quan của chính nền khoa học Việt Nam? Theo báo cáo tổng quan
của Ban Nghiên cứu Harvard trình lên Thủ tướng thì năm 2002, Việt Nam
chỉ đăng ký có 2 bản quyền với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO).
Năm 2006, các nhà nghiên cứu của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
(VAST) đăng được 41 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế. Cũng
trong năm đó, chỉ riêng các nhà nghiên cứu của Trường Đại học Phúc Đán ở
Thượng Hải đã đăng được 2.286 bài trên các tạp chí quốc tế… Con số này
ít nhất cũng nói lên một điều gì đó về trình độ nghiên cứu thật của
các nhà khoa học Việt Nam?
GS NVT: Tất nhiên là trình độ nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam
còn yếu. Toán học tuy được coi là ngành khoa học cơ bản phát triển
nhất ở Việt Nam nhưng cũng chỉ được xếp hạng ở nhóm kém nhất. Nhưng chủ
yếu vẫn là do cơ chế chưa khuyến khích các nhà khoa học làm nghiên cứu
hay triển khai ứng dụng thực sự. Hàng chục năm nay việc đánh giá khoa
học ở mọi cấp từ đào tạo Tiến sĩ, đến phong chức danh, đề bạt cán bộ
khoa học hay xét duyệt đề tài nghiên cứu đều không dựa vào những chuẩn
mực khoa học khách quan như công bố quốc tế hay nghiên cứu công nghệ có
ứng dụng thực sự. Hệ thống này đâu có khuyến khích nghiên cứu ‘thật’
và do đó làm gì có kết quả ‘thật’.
PV: Trong điều kiện hiện nay, làm khoa học
chân chính mà vẫn nghĩ đến chuyện làm giàu, thì liệu có là một chuyện
đáng buồn?
GS
NVT: Trước tiên phải nói
thật là làm khoa học không bao giờ giàu được, nhất là trong nghiên cứu
cơ bản. Trong các ngành khoa học ứng dụng có thể khác vì có liên quan
đến yếu tố kinh doanh. Nếu làm giàu được bằng các kết quả khoa học thực
sự thì là chuyện vui chứ đâu phải chuyện buồn. Nhưng nếu lấy chuyện
kiếm đề tài nhà nước để làm giàu thì lại là chuyện khác.
PV: Có ý kiến cho rằng sở dĩ ngành Toán có
được một quá khứ huy hoàng là do những người giỏi nhất thời kỳ chiến
tranh và bao cấp bị “dồn” vào học Toán?
GS NVT: Đúng, thực ra đã có một thời kỳ chúng ta “sai lầm” khi quá ưu
ái các môn khoa học cơ bản, chứ không phải ưu ái môn Toán nói riêng.
Nếu không có sự ưu ái đó, Toán học Việt Nam không thể có được những
thành tựu như ngày nay được quốc tế công nhận. Thành tựu lớn nhất của
chính sách này có lẽ là việc bảo đảm được chất lượng giảng dạy Toán học
ở mọi cấp từ phổ thông cho đến đại học khá tốt so với mặt bằng thế
giới. Công nghệ thông tin ở Việt Nam phát triển nhanh cũng chính một
phần dựa vào nguồn nhân lực được đào tạo Toán học tương đối tốt. Phải
thấy rằng việc Nhà nước gửi người đi học những năm chiến tranh rất đồng
bộ, bao gồm tất cả các ngành khoa học kỹ thuật. Sai lầm duy nhất có lẽ
là thiếu các ngành Luật và Kinh tế. Nhưng thử hỏi gửi người đi học
Luật và Kinh tế ở các nước XHCN thời bấy giờ có thật sự hiệu quả không.
PV: GS có bi quan cho tương lai ngành Toán
học của VN?
GS
NVT: Hiện nay chúng tôi
đang đau đầu về chuyện này. Lượng bài công bố trong ngành Toán có chiều
hướng đi xuống trong lúc các ngành khác lại tăng lên. Nhiều người trẻ
không chọn Toán làm nghề nữa. Phần lớn những người có trình độ tuổi đã
trên 50. Những người làm Toán có trình độ làm việc ở trong nước lứa
tuổi 30-45 có thể đếm được trên đầu ngón tay. Tìm người trẻ để đào tạo
cũng rất khó. Những người ưu tú nhất đều đi du học và ở lại làm việc ở
nước ngoài. Điều duy nhất hiện nay chúng tôi có thể làm được là tạo
điều kiện cho các cán bộ trẻ làm việc trong nước đi học tập và nghiên
cứu ở nước ngoài. Nhiều năm qua, Viện Toán làm rất tốt việc này bằng uy
tín và các mối quan hệ quốc tế của mình.
PV: Nhưng liệu nó có xảy ra tình huống khi
nghiên cứu xong thì họ sẽ ở lại nước sở tại và làm việc?
GS NVT: Điều đó không thể tránh được khi đất nước không tạo ra được
tiền đồ cho họ phát triển.
PV: Vậy là chúng ta đã đầu tư “công cốc”?
GS NVT: Tất nhiên là có người đi, người về, được người nào về là hay
rồi. Tôi rất phản đối ý kiến của một số người là đi du học và ở lại
cũng là một cách xuất khẩu lao động kiếm tiền cho Tổ quốc. Vậy các công
việc ở trong nước, ai sẽ là người đảm nhiệm? Ai sẽ phụ trách công tác
giảng dạy và nghiên cứu phục vụ các mục tiêu của đất nước? Người ta có
thể lấy lý do đợi kinh tế phát triển rồi mới mời các chuyên gia về phục
vụ. Lúc ấy thì đã muộn rồi. Khoa học cần có thời gian và một cộng đồng
đủ lớn mới có thể phát triển lành mạnh. Tôi rất lo rồi đến lúc nào đấy
không còn đội ngũ chuyên gia thực sự để làm công tác giảng dạy và
nghiên cứu nữa. Bất cứ một quốc gia nào cũng phải có nền khoa học lành
mạnh mới có thể phát triển kinh tế một cách bền vững.
PV: Nhưng có những người phản biện rằng chỉ
ở nước ngoài họ mới có điều kiện nghiên cứu và sau khoảng 10- 20 năm
nghiên cứu đủ trình độ họ sẽ tự về đóng góp.
GS NVT: Chuyện này rất khó nói. Một khi anh đã đi và quen với cuộc
sống bên ngoài thì rất khó quay trở về. Ở Viện này đã có một số người
chỉ định đi 3-4 năm để giải quyết vấn đề kinh tế nhưng một khi đã quen
với môi trường bên ngoài thì trở về rất khó sống nổi. Có nhiều cái khó
có thể quen được. Một nhà khoa học trung thực làm sao có thể chịu đựng
được việc làm cái gì cũng phải xin xỏ. Nhiều khi công việc chuyên môn
mình làm nhưng lại do người khác không biết gì chuyên môn quyết định.
Các bộ phận hành chính ở các cơ quan bây giờ nặng nề vô cùng, trở thành
chủ thể trong mọi trường đại học và cơ quan nghiên cứu. Những chuyện
này tưởng nhỏ nhưng ảnh hưởng rất lớn vì anh không tự quyết định được
cuộc sống và công việc của mình.
Thực ra có nhiều trí thức Việt Nam ở nước ngoài muốn trở về xây
dựng quê hương. Dù điều kiện kinh tế trong nước không bằng nước ngoài
nhưng nếu nhà nước tạo điều kiện xã hội để người ta yên tâm sinh sống,
tạo môi trường làm việc độc lập, tự chủ thì tôi cam đoan sẽ có rất
nhiều người quay trở về làm việc.
Theo Vietimes